Thế hệ máy tính thứ tư là gì?

Thế hệ máy tính thứ tư bao gồm những tiến bộ trong điện toán được thực hiện từ đầu những năm 1970 đến giữa những năm 1980.

Đặc tính quan trọng nhất của thời kỳ này là việc tạo ra các bộ vi xử lý, các mạch tích hợp bởi hàng ngàn trình điều khiển thực hiện các chức năng logic và số học của máy tính.

Trong bối cảnh này, các thuật ngữ LSI (Tích hợp quy mô lớn: tích hợp quy mô lớn) và VLSI (Tích hợp quy mô rất lớn: tích hợp quy mô rất lớn) đã xuất hiện, trong đó đề cập chính xác đến quá trình thu nhỏ công nghệ này: thế hệ máy tính thứ tư cho phép khả năng tích hợp một số lượng lớn các mạch trong một con chip nhỏ, làm thay đổi hoàn toàn thực tế sống ở thời điểm đó.

Những bộ vi xử lý này rất nhanh và chiếm rất ít không gian, điều đó có nghĩa là vào thời điểm đó, một cuộc cách mạng công nghệ thực sự. Nhờ phát hiện này, PC (Máy tính cá nhân: máy tính cá nhân) đã xuất hiện trong thế hệ máy tính thứ tư, có thể thực hiện các chức năng tương tự như một máy tính lớn hơn và có thể được sản xuất hàng loạt với chi phí thấp.

Bộ vi xử lý đầu tiên

INTEL là công ty đã tạo ra bộ vi xử lý đầu tiên. Người tạo ra nó là Ted Hoff. Ý tưởng là định vị tất cả các yếu tố của máy tính trên một con chip nhỏ.

Sau đó, vào năm 1971, công ty đã thương mại hóa Intel 4004, đây là bộ xử lý lập trình đầu tiên có sẵn cho người tiêu dùng: chip này có thể được tùy chỉnh thông qua các phần mềm khác nhau để có thể thực hiện các hành động khác nhau.

Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của bộ vi xử lý này là nó giúp giảm chi phí sản xuất: thiết bị mới có khả năng tạo ra cùng một năng lượng được tạo ra bởi một máy tính có kích thước của phòng khách, trong một chiếc máy nhỏ đến mức có thể đặt lỏng lẻo trên bàn.

Mặt khác, phát minh này được tạo ra trong thế hệ máy tính thứ tư sau này sẽ cho phép công nghệ này được sử dụng trong các loại thiết bị khác, như điện thoại di động, thiết bị trò chơi điện tử và thậm chí cả máy điều hòa nhịp tim.

Máy tính đầu tiên có bộ vi xử lý

Vào giữa những năm 1970, sau khi cải tiến nguyên mẫu vi xử lý đầu tiên, máy tính bắt đầu xuất hiện ồ ạt hơn.

Năm 1973, chiếc máy tính đầu tiên có bộ vi xử lý xuất hiện: nó được gọi là Micral và nó được thiết kế bởi Pháp André Truong Trọng Thi và François Gernelle.

Máy tính này đã sử dụng bộ vi xử lý Intel 8008. Mặc dù một số được bán cho mục đích cá nhân, nó không có nhu cầu lớn như vậy.

Năm 1974, máy tính Mỹ được công bố thương mại đầu tiên xuất hiện: Scelbi. Máy tính này cũng sử dụng bộ vi xử lý Intel 8008 và xuất hiện trên thị trường với bộ nhớ trong 4 KB.

Sự bùng nổ của PC

Năm 1975, công ty Micro Thiết bị và Thiết bị từ xa (MITS) của Hoa Kỳ bắt đầu đưa ra thị trường Altair 8800, một máy tính được tạo bởi Ed Roberts, đồng sáng lập của MITS.

Ngôn ngữ lập trình anh sử dụng là "Cơ bản", có giấy phép được cấp bởi những người tạo ra ngôn ngữ đó (Bill Gates và Paul Allen, người sáng lập Microsoft) là ngôn ngữ chính của Altair.

Trong thời kỳ này ngày càng có nhiều tiến bộ công nghệ. Năm 1976, Intel giới thiệu bộ vi xử lý 8080, nhanh hơn năm lần so với 8008 được sử dụng trong máy tính Altair.

Cũng trong năm đó, công ty Zilog thương mại hóa một bộ vi xử lý khác có tên là Zilog Z80, đã trình bày / hiển thị các cải tiến cho Intel 8080.

Năm 1976 Apple Computer ra đời, được thành lập bởi Steven Wozniak và Steven Jobs. Cùng năm đó, họ đã giới thiệu máy tính Apple I ra thị trường, công chúng không được công chúng chấp nhận đặc biệt.

Tuy nhiên, vào năm 1977 họ tiếp thị Apple II, sản phẩm bắt đầu thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Với máy tính này, Wozniak và Jobs bắt đầu tham gia mạnh mẽ vào thị trường công nghệ.

Trong những năm tiếp theo của thập niên 70, Apple đã trở thành một công ty có phạm vi tiếp cận lớn hơn và các công ty khác cũng tạo ra và đưa ra thị trường các nguyên mẫu khác nhau đang cung cấp các giải pháp ngày càng tốt hơn cho người tiêu dùng. Một số trong những công ty này là Commodore, Radio Shack và IBM.

Trong thập niên 80, có một vài sự kiện quan trọng. Năm 1981, IBM cung cấp máy tính cá nhân đầu tiên và năm 1984, Apple giới thiệu máy tính Macintosh.

Đặc điểm của thế hệ máy tính thứ tư

Trong thời kỳ này, nhiều tiến bộ công nghệ đã được trải nghiệm là tiền đề cho các công nghệ trong tương lai.

Các máy tính thuộc thế hệ này mạnh hơn, thiết thực và dễ tiếp cận không chỉ với các nhà khoa học, học giả hay học giả, mà còn cho các loại người khác hiểu rằng họ cũng có thể sử dụng các máy này.

Dưới đây là các tính năng chính của thế hệ máy tính thứ tư:

  1. Việc sử dụng các bộ vi xử lý, cho phép thu nhỏ cấu trúc.
  2. Các thuật ngữ công nghệ LSI (Tích hợp hệ thống lớn: tích hợp quy mô lớn) và VLSI (Tích hợp hệ thống rất lớn: tích hợp quy mô rất lớn) được giới thiệu, liên quan đến số lượng linh kiện điện tử trong một chip.
  3. Kích thước của nó nhỏ hơn, có nghĩa là một máy tính có thể được sử dụng ở nhà và có thể được coi là một máy cầm tay.
  4. Chi phí sản xuất thấp hơn, do đơn giản hóa cấu trúc.
  5. Khái niệm về PC (Máy tính cá nhân: máy tính cá nhân) được giới thiệu, điều đó có nghĩa là những máy này trở nên dễ tiếp cận hơn với công chúng.
  6. Những tiến bộ và cải tiến quan trọng đã được thực hiện về tốc độ và độ tin cậy của hệ thống.
  7. Không ngừng tăng số lượng mạch bên trong một con chip.
  8. Kết nối mạng giữa các máy tính bắt đầu phát triển để chia sẻ bộ nhớ, thông tin hoặc thậm chí một số phần mềm.
  9. Do sự phát triển của kết nối mạng giữa các máy tính, khái niệm Internet bắt đầu được giới thiệu.
  10. Ngôn ngữ "Cơ bản" là đặc tính trong các máy tính được tạo ra trong giai đoạn này.
  11. Do nhu cầu về máy tính ngày càng tăng, đã có nhiều cải tiến trong việc phát triển phần mềm.
  12. GUI (Giao diện người dùng đồ họa: giao diện người dùng đồ họa) được phát triển, một dạng tương tác giữa người dùng và máy tính cho phép chiếu hình ảnh trên màn hình và truy cập chúng thông qua bề mặt chuột hoặc chạm.