Công nghệ nguyên thủy: 9 công cụ và tạo tác

Công nghệ nguyên thủy là tập hợp các cổ vật được tạo ra bởi con người từ năm 250.000 trước Công nguyên, lúc đó bắt đầu thời kỳ đồ đá. Những cổ vật nguyên thủy này chủ yếu được làm từ đá, gỗ, xương động vật và sợi tự nhiên.

Những phát hiện khảo cổ quan trọng nhất của loại công cụ này đến từ Châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Những cá nhân đầu tiên chịu trách nhiệm cho sự phát triển của công nghệ nguyên thủy là những người du mục di chuyển từ nơi này sang nơi khác để kiếm thức ăn và nơi trú ẩn.

Những người du mục này là những thợ săn đã sử dụng các cạnh sắc nhọn của đá để cắt thức ăn của họ và sản xuất các mặt hàng khác, chẳng hạn như quần áo và cửa hàng (Tema Fantástico, 2017).

Khoảng năm 100.000 trước Công nguyên, tổ tiên của loài người hiện đại đã phát triển rìu hình bầu dục, dao, dao phay và nhiều loại dụng cụ bằng đá chỉ ra rằng rìu cầm tay đã trở thành một công cụ cho phép các công cụ khác phát triển.

Khả năng này để phát triển các công cụ tạo nên công nghệ nguyên thủy là một yếu tố cơ bản để phân biệt con người với các loài khác.

Sự phát triển công nghệ nguyên thủy được coi là nền tảng cho sự tiến hóa của loài người cho đến ngày nay. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng các tạo tác và các yếu tố mà sự khéo léo của con người nguyên thủy đã đặt nền móng cho cuộc sống như chúng ta biết ngày nay (Carvajal, 2013).

Các yếu tố và hiện vật đáng chú ý của công nghệ nguyên thủy

Một số yếu tố và tạo tác công nghệ được phát triển bởi người nguyên thủy được liệt kê dưới đây:

Trục

Rìu là những cổ vật lâu đời nhất được sản xuất bởi con người. Có bằng chứng cho thấy các vượn nhân hình đầu tiên đã tạo ra các trục cách đây hơn 250.000.

Trên thực tế, với việc sản xuất nguyên tố này, chúng ta bắt đầu một thứ mà chúng ta biết ngày nay là thời kỳ đồ đá.

Chiếc rìu trở thành yếu tố thiết yếu cho sự phát triển công nghệ, vì nó cho phép các yếu tố khác được sản xuất, như quần áo và cửa hàng (Angelini & Bongioanni, 2004).

Lửa

Việc kiểm soát lửa đóng một bước cơ bản trong sự phát triển của công nghệ nguyên thủy. Tổ tiên của chúng ta đã đập đá chống lại pyrites với mục đích tạo ra tia lửa, khi rơi vào vật liệu thực vật khô, tạo ra lửa.

Ban đầu, ngọn lửa đến từ các nguồn tự nhiên, từ đó nó được thực hiện cẩn thận và trân trọng. Sự phát triển của kỹ thuật thắp lửa cho phép vượn nhân tự giải thoát khỏi nghĩa vụ bảo vệ lửa.

Mặt khác, lửa mang theo những lợi ích khác như sự phát ra ánh sáng và nhiệt, khả năng nấu thức ăn và các miếng được mô phỏng trong đất sét, như thùng chứa và thùng chứa.

Lửa được coi là di sản công nghệ lớn nhất còn lại của con người nguyên thủy, bởi vì nhờ đó, nó có thể sửa đổi cách con người được cho ăn (Hodges, 1964).

Tàu thuyền

Với sự khám phá và làm chủ lửa, người ta có thể nấu các vật liệu như đất sét để tạo cho chúng sức đề kháng cao hơn.

Theo cách này, đất sét đã được sử dụng để làm cho các thùng chứa và thùng chứa lý tưởng để nấu thức ăn, lưu trữ ngũ cốc, truyền các loại thảo mộc và các chất lên men.

Sắc tố khoáng

Mặc dù công nghệ nguyên thủy tập trung phần lớn sự chú ý vào việc phát triển các công cụ thực tế, nó cũng tập trung vào việc tạo ra các yếu tố trang trí hoặc nghi lễ khác.

Đây là cách những người đàn ông đầu tiên chịu trách nhiệm sản xuất các sắc tố từ quá trình nghiền thành các khoáng chất. Những sắc tố này đã được sử dụng để áp dụng trên da, chậu đất sét, quần áo, giỏ và các đồ tạo tác khác.

Nhờ tìm kiếm sắc tố, những người đàn ông đầu tiên đã phát hiện ra một số khoáng chất như malachite và azurite (Suárez, 2010).

Luyện kim

Do tìm kiếm khoáng chất và sắc tố, những người đàn ông đầu tiên cũng phát hiện ra đồng. Kim loại này được tìm thấy dưới dạng bụi và khi đánh vào người đàn ông nhận ra rằng, thay vì bị phá hủy, nó trở thành một tấm

. Nhờ những tính chất này của đồng, các kỹ thuật mới để sản xuất đồ trang sức sẽ sớm được phát triển.

Những người đầu tiên cũng đã phát triển các kỹ thuật rèn đồng. Khám phá ra rằng nếu nó tiếp xúc với lửa nhiều lần, nó có được sức đề kháng lớn hơn và tính chất vật lý tốt hơn.

Quá trình phơi kim loại này ra lửa và loại bỏ căng thẳng của nó được gọi là ủ và ứng dụng của nó có từ 3.000 trước Công nguyên.

Trong thời kỳ này cũng có bằng chứng về việc sử dụng hợp kim thiếc với đồng để sản xuất đồng, một kim loại dễ uốn hơn đồng nguyên chất và có khả năng tạo ra các cạnh sắc nét hơn để tạo ra các vật phẩm như kiếm và liềm.

Một yếu tố quan trọng khác về sự phát triển công nghệ của các nền văn minh nguyên thủy có liên quan đến cách thức thu thập đồng.

Điều này được lấy từ hòn đảo Crete bằng cách sử dụng các tàu có khả năng tiếp cận điểm này. Knossos, trên đảo Crete, là một điểm được đánh giá cao trong Thời đại đồ đồng, vì có một trong những mỏ đồng quan trọng nhất đối với nam giới.

Bánh xe

Phát minh của bánh xe là một chút gần đây hơn chúng ta nghĩ. Việc sử dụng nguyên tố này có từ năm 5.000 trước Công nguyên như một yếu tố được con người sử dụng để công nghệ hóa các quy trình liên quan đến canh tác đất đai.

Theo cách này, con người có thể dừng việc trở thành một người du mục và định cư lâu dài ở một nơi, do đó có thể làm việc trên đất, mà không bị buộc phải di chuyển để thu thập thức ăn của mình.

Bánh xe cũng sẽ được sử dụng trong xe chở hàng. Sử dụng giữ cho đến ngày hôm nay.

Viết

Mặc dù bản thân nó không bao gồm một cổ vật, xã hội học đủ điều kiện viết lách là một trong những phát minh quan trọng nhất của các nền văn minh nguyên thủy.

Viết là một trong những yếu tố cho phép các cộng đồng nguyên thủy có được địa vị của các nền văn minh.

Lịch

Theo cùng một dòng văn bản, việc phát minh ra lịch cũng được coi là một trong những điều quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.

Lịch cho phép chúng tôi đo thời gian, ghi lại các sự kiện lịch sử và đánh dấu các tháng và mùa trong năm. Người Sumer (5.000 trước Công nguyên) được ghi nhận với việc phát minh ra lịch như chúng ta biết ngày nay (12 tháng 28, 30 và 31 ngày mỗi lần).

Gạch

Người Sumer cũng được ghi nhận với việc phát minh ra hệ thống xây dựng mô-đun được gọi là gạch.

Theo cách này, việc xây dựng và xây dựng nhà ở và nơi thờ cúng tôn giáo trở nên khả thi theo cách linh hoạt hơn.

Mặt khác, các viên gạch có thể được làm bằng đá hoặc bằng cách trộn các chất có nguồn gốc thực vật và động vật.