14 Ưu điểm và nhược điểm của năng lượng hạt nhân

Những lợi thế và bất lợi của năng lượng hạt nhân là một cuộc tranh luận khá phổ biến trong xã hội ngày nay, được phân chia rõ ràng thành hai phe. Một số người cho rằng đó là một năng lượng đáng tin cậy và rẻ tiền, trong khi những người khác cảnh báo về những thảm họa có thể gây ra lạm dụng nó.

Năng lượng hạt nhân hoặc năng lượng nguyên tử thu được thông qua quá trình phân hạch hạt nhân, bao gồm bắn phá một nguyên tử urani bằng neutron để nó được chia thành hai, giải phóng một lượng nhiệt lớn sau đó được sử dụng để tạo ra điện.

Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên được khánh thành vào năm 1956 tại Vương quốc Anh. Theo Castells (2012), trong năm 2000, có 487 lò phản ứng hạt nhân sản xuất một phần tư điện năng của thế giới. Hiện tại sáu quốc gia (Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đức, Nga và Hàn Quốc) chiếm gần 75% sản lượng điện hạt nhân (Fernández và González, 2015).

Nhiều người nghĩ rằng năng lượng nguyên tử rất nguy hiểm nhờ các vụ tai nạn nổi tiếng như Chernobyl hay Fukushima. Tuy nhiên, có những người coi loại năng lượng này là "sạch" vì nó có rất ít khí thải nhà kính.

Ưu điểm

Nó không thể thay thế nhiên liệu hóa thạch

Chỉ riêng năng lượng hạt nhân không đại diện cho sự thay thế cho nhiên liệu dầu, khí đốt và than, vì để thay thế 10 terawios được tạo ra trên thế giới từ nhiên liệu hóa thạch, sẽ cần 10 nghìn nhà máy điện hạt nhân. Trên thực tế, chỉ có 486 trên thế giới.

Phải mất rất nhiều tiền đầu tư và thời gian để xây dựng một nhà máy hạt nhân, thường mất hơn 5 đến 10 năm kể từ khi bắt đầu xây dựng cho đến khi khởi động, và điều rất phổ biến là sự chậm trễ xảy ra ở tất cả các nhà máy mới (Zimmerman, 1982).

Ngoài ra, thời gian hoạt động tương đối ngắn, khoảng 30 hoặc 40 năm, và cần phải đầu tư thêm cho việc tháo dỡ nhà máy.

Phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch

Triển vọng liên quan đến năng lượng hạt nhân phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Chu trình nhiên liệu hạt nhân không chỉ liên quan đến quá trình sản xuất điện trong nhà máy, nó còn bao gồm một loạt các hoạt động bao gồm từ thăm dò và khai thác các mỏ uranium đến ngừng hoạt động và ngừng hoạt động của nhà máy hạt nhân.

Khai thác Uranium có hại cho môi trường

Việc khai thác uranium là một hoạt động rất có hại cho môi trường, bởi vì để có được 1 kg uranium, cần phải loại bỏ hơn 190.000 kg đất (Fernández và González, 2015).

Ở Hoa Kỳ, tài nguyên uranium trong các mỏ thông thường, trong đó uranium là sản phẩm chính, ước tính khoảng 1.600.000 tấn chất nền mà chúng có thể phục hồi, thu hồi 250.000 tấn uranium (Theobald, et al., 1972)

Uranium được chiết xuất trên bề mặt hoặc trong lòng đất, được nghiền nát và sau đó được lọc thành axit sulfuric (Fthenakis và Kim, 2007). Các chất thải được tạo ra làm ô nhiễm đất và nước của nơi đó với các yếu tố phóng xạ và góp phần vào sự hủy hoại của môi trường.

Uranium mang những rủi ro sức khỏe đáng kể ở những công nhân khai thác nó. Samet và các đồng nghiệp đã kết luận vào năm 1984 rằng khai thác uranium là yếu tố nguy cơ phát triển ung thư phổi cao hơn so với hút thuốc lá.

Chất thải rất dai dẳng

Khi một nhà máy hoàn thành các hoạt động của mình, cần phải bắt đầu quá trình tháo dỡ để đảm bảo rằng việc sử dụng đất trong tương lai không gây ra rủi ro phóng xạ cho dân cư hoặc cho môi trường.

Quá trình tháo dỡ bao gồm ba cấp độ và thời gian khoảng 110 năm là cần thiết để đất không bị ô nhiễm. (Dorado, 2008).

Hiện tại, có khoảng 140.000 tấn chất thải phóng xạ mà không có bất kỳ loại giám sát nào, được thải ra từ năm 1949 đến 1982 tại rãnh Đại Tây Dương, bởi Vương quốc Anh, Bỉ, Hà Lan, Pháp, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đức và Ý (Reinero, 2013, Fernández và González, 2015). Có tính đến rằng cuộc sống hữu ích của uranium là hàng ngàn năm, điều này thể hiện nguy cơ cho các thế hệ tương lai.

Thảm họa hạt nhân

Các nhà máy điện hạt nhân được xây dựng với các tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt và các bức tường của chúng được làm bằng bê tông dày vài mét để cách ly vật liệu phóng xạ với bên ngoài.

Tuy nhiên, không thể nói rằng chúng an toàn 100%. Trong những năm qua, đã có một vài tai nạn cho đến nay ngụ ý rằng năng lượng nguyên tử thể hiện nguy cơ đối với sức khỏe và sự an toàn của người dân.

Vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, một trận động đất đã xảy ra 9 độ trên thang Richter ở bờ biển phía đông Nhật Bản gây ra một trận sóng thần kinh hoàng. Điều này đã gây ra thiệt hại lớn cho nhà máy điện hạt nhân Fukushima-Daiichi, nơi có các lò phản ứng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Các vụ nổ sau đó bên trong các lò phản ứng đã giải phóng các sản phẩm phân hạch (hạt nhân phóng xạ) vào khí quyển. Các hạt nhân phóng xạ nhanh chóng liên kết với các sol khí trong khí quyển (Gaffney và cộng sự, 2004), và sau đó di chuyển rất xa trên khắp thế giới cùng với các khối không khí do sự lưu thông lớn của khí quyển. (Lozano, et al., 2011).

Thêm vào đó, một lượng lớn chất phóng xạ đã tràn ra đại dương và cho đến ngày nay, nhà máy Fukushima tiếp tục giải phóng nước bị ô nhiễm (300 tấn / ngày) (Fernández và González, 2015).

Vụ tai nạn Chernobyl xảy ra vào ngày 26 tháng 4 năm 1986, trong quá trình đánh giá hệ thống điều khiển điện của nhà máy. Thảm họa đã phơi bày 30.000 người sống gần lò phản ứng với khoảng 45 lần phóng xạ mỗi lần, xấp xỉ cùng mức phóng xạ mà những người sống sót sau vụ đánh bom ở Hiroshima (Zehner, 2012)

Trong giai đoạn đầu sau tai nạn, các đồng vị quan trọng nhất được giải phóng theo quan điểm sinh học là iốt phóng xạ, chủ yếu là iốt 131 và các iốt tồn tại ngắn khác (132, 133).

Sự hấp thụ iốt phóng xạ khi ăn phải thức ăn và nước bị ô nhiễm và do hít phải dẫn đến phơi nhiễm nghiêm trọng bên trong tuyến giáp ở người.

Trong 4 năm sau vụ tai nạn, kiểm tra y tế đã phát hiện những thay đổi đáng kể về tình trạng chức năng của tuyến giáp ở trẻ em bị phơi nhiễm, đặc biệt là trẻ em dưới 7 tuổi (Nikiforov và Gnepp, 1994).

Sử dụng hiếu chiến

Theo Fernández và González (2015), rất khó tách ngành công nghiệp hạt nhân dân sự khỏi quân đội vì chất thải từ các nhà máy điện hạt nhân, như plutonium và uranium cạn kiệt, là nguyên liệu thô trong sản xuất vũ khí hạt nhân. Plutonium là cơ sở của bom nguyên tử, còn uranium được sử dụng trong các tên lửa.

Sự tăng trưởng của năng lượng hạt nhân đã làm tăng khả năng của các quốc gia để có được uranium cho vũ khí hạt nhân. Người ta biết rằng một trong những yếu tố khiến một số quốc gia không có chương trình năng lượng hạt nhân bày tỏ sự quan tâm đến năng lượng này là nền tảng mà các chương trình đó có thể giúp họ phát triển vũ khí hạt nhân. (Jacobson và Delucchi, 2011).

Một sự gia tăng toàn cầu quy mô lớn trong các cơ sở năng lượng hạt nhân có thể khiến thế giới gặp nguy hiểm khi đối mặt với một cuộc chiến tranh hạt nhân hoặc khủng bố có thể xảy ra. Đến nay, việc phát triển hoặc cố gắng phát triển vũ khí hạt nhân từ các quốc gia như Ấn Độ, Iraq và Triều Tiên đã được thực hiện bí mật trong các cơ sở năng lượng hạt nhân (Jacobson và Delucchi, 2011).