7 đóng góp quan trọng nhất của Lewis và Pauling

Những đóng góp của Lewis và Pauling đã cách mạng hóa lĩnh vực khoa học hiện đại, các nghiên cứu của họ trong các lĩnh vực hóa lý đã và có tầm quan trọng sống còn trong các ngành hóa học và sinh học khác nhau.

Linus Pauling là một nhà vật lý và hóa học đến từ Hoa Kỳ, cái tên được biết đến nhờ nghiên cứu về liên kết hóa học và cấu trúc phân tử.

Ông là một sinh viên tại Đại học Oregon, một khu vực nơi ông đã phát triển phần lớn các lý thuyết và nền tảng của mình. Nghiên cứu của ông bắt đầu có kết quả vào khoảng năm 1930 trong khi ông giữ vị trí giáo sư hóa học tại Đại học Oregon.

Từ 1927 đến 1964, ông đã tạo ra các cơ sở nghiên cứu phân tử hiện nay, giảm hóa học thành vật lý. Cuốn sách " Bản chất của liên kết hóa học " là cuốn sách có nhiều tài liệu tham khảo nhất được trích dẫn bởi cộng đồng khoa học và là một trong những ấn phẩm quan trọng nhất trong lịch sử khoa học đương đại.

Gilbert Newton Lewis, được sinh ra sớm hơn nhiều, đã thực hiện các nghiên cứu quan trọng về các electron ngoại vi của các nguyên tử trong số những đóng góp quan trọng khác sẽ được nêu tên dưới đây.

Công việc của ông là một giáo sư hóa lý và trưởng khoa tại Đại học California chắc chắn có kết quả.

Linus Pauling và Gilbert Lewis, cả các nhà khoa học và giáo sư, là công cụ trong việc phát triển và hiểu biết về các phương pháp nghiên cứu mới.

Nghiên cứu đầu tiên củng cố nghiên cứu hiện tại về bản chất của liên kết hóa học và nghiên cứu sau cho thấy bản chất của các nucleon và sự chính thức hóa học nhiệt động.

Đóng góp của Gilbert Lewis

Nguyên tử khối

Mô hình nguyên tử của Lewis được coi là phiên bản trước của mô hình nguyên tử hiện tại, có các electron hóa trị được đặt bên trong một khối giả thuyết được sử dụng làm tài liệu tham khảo để biểu diễn cấu trúc nguyên tử.

Mô hình này rất hữu ích để chính thức hóa khái niệm hóa trị sẽ trở thành không có gì khác hơn là khả năng kết hợp của một nguyên tử để tạo thành hợp chất.

Quy tắc bát tử

Đó là vào năm 1916 khi Gilbert Newton Lewis tuyên bố rằng các nguyên tử hệ thống tuần hoàn có xu hướng nhận được mức năng lượng cuối cùng của chúng với 8 electron, do đó cấu hình của chúng được ổn định ngay cả bởi một loại khí cao quý.

Quy tắc này được áp dụng trong liên kết của các nguyên tử sẽ xác định bản chất của hành vi và các thuộc tính của các phân tử.

Nước nặng

Năm 1933, bằng phương pháp điện phân, mẫu nước đầu tiên tinh khiết nặng, deuterium oxide, một đồng vị của hydro thay vì đồng vị hydro-1 hoặc protium, làm cho nó đặc hơn 11% so với nước, được tách ra. ánh sáng

Cấu trúc của Lewis

Đó là cấu trúc phân tử trong đó các electron hóa trị được ký hiệu là các điểm giữa các nguyên tử tạo liên kết.

Nghĩa là, hai điểm có nghĩa là liên kết cộng hóa trị, liên kết đôi sau đó sẽ là hai cặp điểm, trong số các điểm khác.

Các electron cũng được ký hiệu là các điểm nhưng được đặt liền kề với các nguyên tử. Đây là các điện tích chính thức sau (+, -, 2+, v.v.) được thêm vào các nguyên tử để phân biệt giữa điện tích hạt nhân dương và tổng số electron.

Đóng góp của Pauling

Độ âm điện

Độ âm điện nghiên cứu xu hướng của một nguyên tử để thu hút một đám mây điện tử trong khi liên kết nguyên tử xảy ra.

Nó được sử dụng để sắp xếp các nguyên tố theo độ âm điện của chúng và được phát triển vào năm 1932, đưa phương pháp này vào những phát hiện và tiến bộ trong tương lai trong hóa học hiện tại.

Các phép đo là các tính năng thực dụng đi từ 4.0 cao nhất (flo) và phạm vi 0, 7 đến francium, tất cả các phạm vi khác dao động giữa hai mệnh giá này.

Bản chất của liên kết hóa học và cấu trúc của các phân tử tinh thể

Đây là cuốn sách được các nhà khoa học trích dẫn nhiều nhất kể từ khi xuất bản năm 1939, đưa Pauling trở thành tiên phong của cộng đồng khoa học ngày hôm qua và hôm nay.

Chính Pauling đã đề xuất lý thuyết lai tạo như một cơ chế biện minh cho sự phân bố các electron hóa trị là tứ diện, phẳng, tuyến tính hoặc tam giác.

Một quỹ đạo lai là quỹ đạo nguyên tử kết hợp. Các quỹ đạo lai có hình dạng bằng nhau và định hướng không gian công bằng.

Số lượng quỹ đạo lai được hình thành tương đương với số lượng quỹ đạo nguyên tử kết hợp với nhau, chúng cũng có một liên kết vùng hoặc thùy.

Khám phá về chuỗi xoắn alpha và bản beta

Để giải thích về chuỗi xoắn alpha, Pauling lập luận rằng cấu trúc bao gồm một chuỗi xoắn ba chuỗi, với chuỗi đường phốt phát ở trung tâm.

Tuy nhiên, dữ liệu là theo kinh nghiệm và vẫn còn một số lỗi cần sửa. Sau đó, Watson và Crick đã cho thế giới thấy chuỗi xoắn kép hiện tại xác định cấu trúc của DNA.

Rosalind Franklin đã lấy được một mẫu trực quan về cơ sở xoắn ốc của DNA và được gọi là cấu trúc B. Công trình tinh thể học của ông là rất cần thiết cho phát hiện này.

Tấm beta hoặc tấm gấp là một trong những mô hình được đề xuất bởi Pauling, trong đó ông giải thích các cấu trúc có thể có mà protein có thể áp dụng.

Nó được hình thành bởi sự định vị song song của hai chuỗi axit amin trong cùng một protein, mô hình này được trình bày vào năm 1951 bởi Pauling với Robert Corey.

Huyết thanh học

Lĩnh vực huyết thanh học cũng bị chi phối bởi Pauling, người đã hướng tâm trí của mình sau đó đến sự tương tác và năng động giữa các kháng nguyên và kháng thể.

Ông thậm chí còn quản lý lý thuyết rằng lý do tại sao các kháng nguyên và kháng thể có thể được kết hợp cụ thể là do mối quan hệ của chúng trong hình dạng của các phân tử của chúng.

Lý thuyết này được gọi là lý thuyết bổ sung phân tử và tạo ra một loạt các thí nghiệm sau này, để củng cố lý thuyết này, sẽ đưa nó đi theo những con đường mới trong lĩnh vực huyết thanh học.