Charles Darwin: Tiểu sử và lý thuyết về sự tiến hóa và lựa chọn

Charles Darwin (1809-1882) là một nhà sinh vật học, nhà địa chất và nhà tự nhiên học người Anh, được biết đến với hai trong số những lý thuyết có ảnh hưởng nhất trong thế giới khoa học; sự tiến hóa và quá trình chọn lọc tự nhiên. Tóm lại, ông đề xuất rằng tất cả các loài sinh vật đến từ một tổ tiên chung và các loài thích nghi tốt nhất với môi trường là những loài sinh sản và tồn tại. Cả hai lý thuyết đều được đề xuất trong Nguồn gốc các loài, xuất bản năm 1859.

Được biết đến như là cha đẻ của tiến hóa, lý thuyết của Darwin đã giúp loại bỏ các quy ước và niềm tin cũ chỉ ra rằng sự hình thành của một số loài là sản phẩm của một hiện tượng gây ra bởi một sinh vật vượt trội (Wood, 2005).

Lý thuyết tiến hóa của Darwin phục vụ khoa học để đưa ra lời giải thích hợp lý hơn về sự hình thành và tồn tại của các loài mới. Điều này được giải thích nhờ vào khái niệm chọn lọc tự nhiên, trong đó một số loài có tổ tiên chung chỉ có thể tồn tại khi chúng thích nghi với môi trường, ngay cả khi điều kiện của chúng thay đổi.

Những người có biến thể không đáng kể sẽ ít có khả năng thích nghi, trong khi những sinh vật có biến thể mang lại cho họ lợi thế thích nghi và sinh sản sẽ là những người sống sót.

Tiểu sử

Charles Robert Darwin sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 tại thành phố Shrewsbury, Anh. Ngôi nhà nơi anh sinh ra được gọi là "El Monte" và ở đó anh sống cùng với năm anh em của mình.

Charles là đứa con thứ năm của cuộc hôn nhân được tạo thành từ Susannah Wedgwood và Robert Darwin. Cha anh giàu có, anh làm doanh nhân và bác sĩ.

Hai gia đình mà Charles đến được xác định theo cách truyền thống với học thuyết về Chủ nghĩa Độc tài, trái với sự tồn tại của Chúa Ba Ngôi.

Nghiên cứu đầu tiên

Ngay từ rất sớm, Charles Darwin đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến lịch sử tự nhiên, vì từ năm 8 tuổi, ông thích xem lại những cuốn sách liên quan đến chủ đề này và thu thập những cuốn sách cũng có liên quan.

Năm 1817, ông bắt đầu tham dự trường học ban ngày, đó là một không gian được điều hành bởi vị linh mục đã rao giảng trong nhà thờ mà gia đình ông đã đến và tham gia.

Cũng vào năm 1817, ông sống cái chết của mẹ mình. Một thời gian sau, anh và anh trai Erasmus của mình vào trường của nhân vật Anh giáo nằm trong thành phố của anh.

Erasmus lớn tuổi hơn Charles và đưa anh đến trường này để làm học trò. Tám năm sau, trong khi mùa hè năm 1825 đang diễn ra, Charles đã cùng cha đến quận Shropshire để hỗ trợ ông làm bác sĩ trong các cuộc tư vấn mà ông thực hiện ở khu vực đó.

Sau đó anh quay lại Erasmus, nhưng lần này đến Đại học Edinburgh, nơi Darwin không được thoải mái lắm, vì anh không thích các lớp học, anh thậm chí còn nói rằng anh cảm thấy buồn chán.

Mặt khác, anh ta khá hứng thú với taxidermy, nhờ vào mối liên kết mà anh ta tạo ra với John Edmonstone, một nô lệ da đen đã học được giao dịch này từ Charles Waterton.

Hội Plinian

Khi còn ở Đại học Edinburgh, anh đã gặp và đăng ký vào Hội Plinian, nơi được tạo thành từ một nhóm sinh viên thảo luận về lịch sử tự nhiên.

Vào thời điểm đó, Charles có mối liên hệ thú vị với nhà nghiên cứu Robert Edmund Grant, người mà anh hợp tác nghiên cứu về động vật không xương sống tạo ra sự sống ở cửa sông Forth.

Tương tự như vậy, vào năm 1827, Charles đã giới thiệu với Hội Plinian một công việc mà ông đã thực hiện trên trứng đỉa được tìm thấy trong vỏ của một số con hàu.

Đó là vào thời điểm này khi Grant nói chuyện với Darwin về những quan niệm liên quan đến sự tiến hóa được đưa ra bởi nhà tự nhiên học người Pháp tên là Jean-Baptiste Lamarck. Lúc đầu, những ý tưởng này làm ông rất hài lòng, bên cạnh đó họ đã chuyển ông.

Cambridge: sự can thiệp của người cha

Charles đã chán trong các lớp học đại học ở Edinburgh, đặc biệt là những lớp liên quan đến khóa học lịch sử tự nhiên mà anh đang theo học, được đưa ra bởi nhà địa chất học và nhà tự nhiên học người Pháp Robert Jameson.

Cha anh đã chú ý và gửi anh vào Đại học Christ, tọa lạc tại Cambridge, nơi mục tiêu là Charles được nhận làm mục sư Anh giáo.

Charles đến trường này vào năm 1828 và một lần nữa bỏ bê việc học, cống hiến cho các hoạt động ngoại khóa, như bắn súng và cưỡi ngựa.

Vào thời điểm đó, có một thời trang đã lan rộng khắp nơi; thu thập bọ cánh cứng. Charles trở nên nhiệt tình với thời trang này và thực hiện nhiều cuộc điều tra khác nhau, kết quả mà ông đã công bố trong sách hướng dẫn được viết bởi nhà tự nhiên học và nhà côn trùng học người Anh James Stephens, được gọi là Minh họa về côn trùng học người Anh .

Trong những năm đó, Charles đã trở thành một người bạn thân của một số tính cách trong lĩnh vực chủ nghĩa tự nhiên, người chỉ ra rằng đề xuất của ông đang thể hiện một loại thần học tự nhiên.

Năm 1831, Charles trình bày bài kiểm tra cuối cùng của mình và được chấp thuận, đứng thứ mười trong số 178 người đã tự đi kiểm tra.

Ở lại Cambridge

Charles Darwin đã phải ở lại Cambridge lâu hơn, khoảng thời gian đó đã có cơ hội tiếp cận việc đọc sách. Lúc này anh đã tìm thấy một nhóm các tác phẩm mà cuối cùng, là một phần thiết yếu trong suy nghĩ của anh.

Những cuốn sách này là Hành trình đến các khu vực bình đẳng của lục địa mới, của Alexander von Humboldt; Thần học tự nhiên, của nhà thần học và triết gia William Paley; và Một bài diễn văn sơ bộ về nghiên cứu triết học tự nhiên, của John Herschel.

Những ấn phẩm này khiến Darwin đóng góp vào việc khám phá và hiểu biết về lịch sử tự nhiên, vì vậy ông quyết định rằng ông sẽ đi đến Tenerife, một thành phố của Tây Ban Nha, cùng với các đồng nghiệp khác với ý định nghiên cứu các cực một cách cẩn thận.

Sau những sự kiện này, Charles trở về nhà và thấy rằng nhà thực vật học John Stevens Henslow, người mà anh ta đã trở nên rất thân thiết, đã đề nghị làm nhà tự nhiên học cho Robert FitzRoy, một sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia Anh.

Mục đích là trở thành bạn đồng hành của thuyền trưởng và đóng góp cho mục đích của chuyến đi, đó là lập bản đồ bờ biển Nam Mỹ.

Cha của Charles đã không đồng ý với chuyến đi này, nó sẽ kéo dài khoảng hai năm và, đối với ông, điều đó có nghĩa là lãng phí thời gian cho con trai ông. Tuy nhiên, cuối cùng anh đã đồng ý.

HMS Beagle

Con tàu mà Darwin đăng ký được gọi là HMS Beagle và thực hiện một chuyến đi mất khoảng năm năm. Hầu hết các nhiệm vụ mà Darwin thực hiện trên con tàu này là ở trên mặt đất vững chắc, thực hiện các cuộc điều tra địa chất, cũng như thu thập các mẫu vật khác nhau.

Charles luôn được đặc trưng bởi cực kỳ tỉ mỉ. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong chuyến đi đầu tiên trên Beagle, anh đã ghi lại rất rõ từng yếu tố của chuyến đi.

Những tài liệu này đã được gửi ngay lập tức đến Cambridge. Charles cũng gửi nhiều thư gia đình, sau này trở thành ký ức về cuộc phiêu lưu của nhà khoa học này.

Ý định chính của Darwin là thu thập càng nhiều bản sao mà anh ta có thể mang theo, để khi họ trở về nhà, họ có thể được kiểm tra bởi các nhà tự nhiên chuyên gia hơn.

Trong chuyến đi này, Darwin đã có cơ hội chiêm ngưỡng những không gian như rừng nhiệt đới Amazon và hệ động thực vật của các khu vực như Quần đảo Galapagos. Đặc biệt là loài chim sẻ của mỗi hòn đảo đã giúp ông phát triển lý thuyết chọn lọc tự nhiên; Tùy thuộc vào hòn đảo, có một loài chim sẻ khác nhau, với đỉnh thích nghi với môi trường cụ thể.

Trở về

Beagle trở lại vào ngày 2 tháng 10 năm 1836. Vào thời điểm đó, các khái niệm của Darwin đã trở nên phổ biến trong lĩnh vực khoa học nhờ sự can thiệp của Henslow.

Ngay khi Darwin đến, một trong những điều đầu tiên anh làm là đến thăm Henlow để tìm lời khuyên về các mẫu vật anh đã thu thập được.

Ngay lập tức, Henslow đề nghị anh ta tìm một số nhà tự nhiên học khác để giúp anh ta phân loại các mẫu vật, và nói với anh ta rằng bản thân anh ta sẽ chăm sóc các yếu tố liên quan đến lĩnh vực thực vật.

Một thời gian trôi qua và Charles vẫn không nhận được các chuyên gia để giúp anh ta. Pararelamente nó đã trở thành một nhân vật nổi bật trong lĩnh vực khoa học, một phần cũng là do các khoản đầu tư liên tục thực hiện của cha mình.

Vào ngày 29 tháng 10 năm 1836, Darwin đã gặp nhà giải phẫu Richard Owen, người chạy như một ứng cử viên để xem xét các xương hóa thạch khác nhau mà ông đã thu thập được. Lợi thế của Owen là anh ta có thể sử dụng các cơ sở của Đại học Phẫu thuật Hoàng gia Anh.

Thật vậy, Richard Owen bắt đầu làm việc trên các mẫu vật này và thu được kết quả tuyệt vời.

Thuyết trình

Vào tháng 1 năm 1837 Charles Darwin bắt đầu tiết lộ tất cả những khám phá mà ông đã thực hiện. Trong bối cảnh này, ông được bổ nhiệm làm thành viên của Hiệp hội Địa lý vào ngày 17 tháng 2 năm 1837.

Sau cuộc hẹn này, anh chuyển đến London, với ý định sống ở một khu vực gần nơi anh làm việc. Năm 1839, ông xuất bản cuốn The Voyage of the Beagle, hóa ra là một thành công bán hàng thực sự và trở thành một tác phẩm rất phổ biến.

Đó là lúc anh bắt đầu lo lắng do một căn bệnh mãn tính đang phát triển.

Nguồn gốc của loài

Năm 1859, ông xuất bản cuốn Nguồn gốc các loài, một công trình trong đó ông giải thích lý thuyết tiến hóa và quá trình chọn lọc tự nhiên của mình.

Cái chết

Những năm cuối cùng của Charles Darwin đầy những khó chịu mạnh mẽ, được hồi sinh trong thời kỳ căng thẳng lớn hơn. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục làm việc cho đến cuối đời.

Ông qua đời tại quận hạt Kent, Anh, vào ngày 19 tháng 4 năm 1882. Ông được mời dự một lễ tang cấp tiểu bang bên trong Tu viện Westminster. Ở đó, ông được chôn cất bên cạnh Isaac Newton.

Thuyết tiến hóa

Năm 1859, tác phẩm nổi tiếng nhất của Darwin, Nguồn gốc các loài, đã được xuất bản . Trong cuốn sách này, ông đã bảo vệ hai lý thuyết;

  • Nguồn gốc chung, ủng hộ sự tiến hóa.
  • Lý thuyết chọn lọc tự nhiên.

Để bắt đầu, có một sự khác biệt quan trọng giữa tiến hóa và các lý thuyết được đề xuất để giải thích nguyên nhân và cơ chế của nó.

Nói một cách đơn giản, lý thuyết tiến hóa là điều giải thích rằng đàn ông đến từ loài khỉ. Chọn lọc tự nhiên giải thích tại sao Homo sapiens sống sót và Homo neanderthalensis bị tuyệt chủng.

Bằng chứng

Sự tiến hóa được định nghĩa là sự kết nối phả hệ tồn tại giữa tất cả các sinh vật sống, dựa trên dòng dõi của chúng từ một tổ tiên chung. Tuyên bố này dựa trên bằng chứng.

Đầu tiên, có bằng chứng trực tiếp về sự thao túng của các loài động vật và thực vật trong hàng trăm năm, với mục đích thuần hóa một số loài hoang dã và phát triển cây trồng tốt hơn, cho thấy sự tồn tại của những thay đổi nhỏ dần theo thời gian. Đây được gọi là lựa chọn nhân tạo.

Mặt khác, sự chọn lọc tự nhiên đã được Darwin quan sát thấy ở các loài chim của quần đảo Galapagos, cho thấy sự thay đổi hình dạng của đỉnh do điều kiện môi trường chung, thức ăn sẵn có và sự hiện diện của các loài động vật và vi khuẩn khác. .

Phát hiện hóa thạch

Những thay đổi sinh học diễn ra trong loài có thể được ghi lại và theo dõi trong các phát hiện hóa thạch. Theo cách này, các nhà cổ sinh vật học đã tìm thấy nhiều bằng chứng và ví dụ về sự thay đổi tuần tự trong các loài sinh vật tổ tiên.

Đặc điểm chung

Cuối cùng, thuyết tiến hóa có thể được chứng minh khi các đặc điểm chung được tìm thấy giữa các loài khác nhau, tất cả chúng từ một tổ tiên chung.

Trong một số trường hợp, những điểm tương đồng này chỉ có thể được giải thích là tàn dư còn sót lại trong loài. Theo cách này, Darwin tin rằng con người có một loạt các đặc điểm vật lý chỉ có thể có được vì chúng đến từ một tổ tiên chung: cá.

Tổ tiên chung

Hầu như tất cả các sinh vật có chung một tổ tiên. Theo Darwin, tất cả các sinh vật đều có chung một tổ tiên chung là theo thời gian tiến hóa theo những cách khác nhau, phân nhánh các loài.

Theo cách này, thuyết tiến hóa của Darwin hỗ trợ các lý thuyết tiến hóa khác nhau và hội tụ.

Ý tưởng về «Loài không tiến hóa, nhưng loài làm»

Darwin tin rằng tiến hóa là một quá trình chậm và dần dần diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Sự thay đổi sinh học từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cùng một loài có thể mất hàng triệu năm, vì đó là một quá trình thích nghi và ổn định chậm.

Darwin hiểu rằng trong mỗi quần thể động vật có những mẫu vật với sự khác biệt cho phép chúng thích nghi tốt hơn với môi trường, sinh sản và truyền những đặc điểm đó. Theo cách này dân số phát triển; các đặc điểm của các cá thể thích nghi tốt nhất được truyền cho các thế hệ sau.

Chọn lọc tự nhiên

Chọn lọc tự nhiên là hiện tượng tiến hóa giải thích tại sao một số loài bị tuyệt chủng và những loài khác sống sót.

Ví dụ, loài chim sẻ Geospiza fortis thích nghi với đảo Santa Cruz de las Galápagos, với môi trường sống tự nhiên là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Những thích nghi này mang lại cho cô một lợi thế sinh sản, cho phép cô sống sót và không bị tuyệt chủng.

Các loài chim sẻ khác, như Geospiza Fuliginosa, Geospiza conirostris, Geospiza scandens hoặc Geospiza difficilis thích nghi với các đảo khác và cũng sống sót.

Do đó, nó là một lựa chọn của tự nhiên, không có lực lượng siêu nhiên nào can thiệp mà chọn loài nào tồn tại và loài nào không.

Darwin quan sát các loài từ tất cả các khu vực mà ông đến thăm, bao gồm Nam Mỹ, Quần đảo Galapagos, Châu Phi và các đảo ở Thái Bình Dương, luôn giữ một kỷ lục (Browne, 1996).

Ông đã có thể quan sát nhiều hiện tượng tự nhiên như động đất, xói mòn, phun trào núi lửa, trong số những người khác.

Sự thích nghi của loài

Tất cả các loài đang trong một quá trình tiến hóa liên tục theo thời gian. Đến mức môi trường thay đổi, nhu cầu của sinh vật cũng thay đổi và điều chỉnh theo môi trường mới để tồn tại.

Hiện tượng thay đổi này trong một khoảng thời gian nhất định với mục đích sống sót được gọi là thích ứng.

Theo lý thuyết của Darwin, chỉ những loài cho thấy những thay đổi vượt trội mới có thể tồn tại, trong khi những loài khác bị tiêu diệt.

Những thay đổi này không nhất thiết ngụ ý sự cải tiến của loài, chúng chỉ đơn giản mang lại cho chúng một lợi thế để có thể tồn tại trong một môi trường nhất định.

Công trình

Các tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Darwin là Nguồn gốc các loài (1859), Hành trình của Beagle (1839), Nguồn gốc của con người (1871) và Biểu hiện cảm xúc ở người và động vật (1872).